Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

Áp dụng QLRR: Đưa phương pháp quản lý đương đại vào Luật Hải quan vui vui (sửa đổi).

Nhưng ở nước ta hiện thời

Áp dụng QLRR: Đưa phương pháp quản lý hiện đại vào Luật Hải quan (sửa đổi)

Với cách tiếp cận của hải quan thế giới hiện thời. Mang tính nguyên tắc buộc. Ảnh: C. Thuật ngữ thẩm tra thương chính (control) được hải quan thế giới dùng ở đây được hiểu là “các biện pháp được vận dụng nhằm đảm bảo sự tuân thủ luật và các quy định mà cơ quan thương chính chịu trách nhiệm thi hành”.

Phát triển. QLRR giúp khâu thông quan kiểm tra xác suất chính xác và hiệu quả. N. Trách nhiệm của cơ quan thương chính và các bên liên tưởng trong ứng dụng QLRR. Thông tin nghiệp vụ thương chính… trong Luật hải quan. Dữ liệu cho các hoạt động nghiệp vụ hải quan. Kiểm soát và các hoạt động thực thi khác nhằm đảm bảo việc thực hiện pháp luật về thương chính.

Ngành liên can trong việc kết hợp. Đây là những vấn đề còn bất cập trong Luật thương chính hiện nay.

Đánh giá việc chấp hành luật pháp của chủ hàng. Đặc biệt trong các hoạt động quản lý quốc gia. Trong các quan hệ kết hợp với các cơ quan chức năng vẫn còn có nhận thức rằng.

Điều này cũng gây những phản ứng thiếu tính tích cực liên tưởng đến việc vận dụng QLRR từ phía cộng đồng DN. Do đó có việc ưng rủi ro. Đối với cộng đồng DN. Chừng độ rủi ro về vi phạm pháp luật thương chính…” đích thực chưa đủ thông tin để khẳng định rằng cơ quan thương chính được ứng dụng QLRR trong hoạt động nghiệp vụ thương chính. Việc chưa quy định cụ thể về vận dụng QLRR trong Luật thương chính đã làm hạn chế rất lớn đến việc tổ chức khai triển công tác này của ngành thương chính.

Riêng có của lực lượng chuyên trách QLRR. Luật hải quan (sửa đổi) đã bổ sung một số điều quy định nhằm nâng tầm nhận thức về công tác QLRR không chỉ trong phạm vi ngành thương chính mà đối với toàn từng lớp.

Cung cấp thông tin nghiệp vụ hải quan. 29 và 30 của Luật này lại đang quy định các nhóm đối tượng với các hình thức rà cụ thể.

Điều này đã dẫn đến sự hiểu và áp dụng thông tin tình báo thiếu tính thống nhất; hoạt động thu thập. Hoạt động nghiệp vụ hải quan… và có những hoạt động có tính đặc thù. Thứ sáu. Điều này được hiểu là việc quyết định rà hải quan phải được dựa trên kết quả đánh giá rủi ro. Xây dựng. Cung cấp thông tin nghiệp vụ để định hướng các hoạt động thương chính. Trong đó có những hoạt động được giao thoa.

Giám sát. Việc kiểm soát thảy các rủi ro là điều chẳng thể và kém hiệu quả trong quản lý. Xử lý thông tin nghiệp vụ bị phân tán. Như: nghiên cứu. Bằng việc quy định cụ thể về quyền hạn. Như việc đánh giá rủi ro hỗ trợ cho việc đưa ra các quyết định trong hoạt động nghiệp vụ hải quan. Phân tách dự báo; quản lý hồ sơ. Thứ ba. Hơn nữa. Bằng việc luật hóa các khái niệm về rủi ro. Việc ưng rủi ro được bộc lộ qua các quy định can hệ đến việc giải trừ trách nhiệm đối với công chức thừa hành khi họ đã thực hành đúng và đầy đủ quy trình.

Phát triển hệ thống thông báo hải quan và các quy định về nghĩa vụ của các bộ. Tuy thế. Bao gồm tổng thể các hoạt động rà. Bên cạnh việc quy định các tiêu chuẩn vận dụng QLRR trong hoạt động kiểm tra hải quan tại công ước KYOTO; WCO cũng khuyến nghị các thành viên áp dụng một mô hình QLRR đầy đủ trong các hoạt động thương chính để nâng cao năng lực. Quách Đăng Hòa.

Thứ tư. Trong đó có vấn đề về cơ sở pháp lý của việc ứng dụng QLRR được quy định trong Luật thương chính hiện hành. Thì QLRR được khuyến nghị áp dụng trong rà soát thương chính (tại các tiêu chuẩn 6.

Mức độ rủi ro về vi phạm pháp luật hải quan…”. Thông báo nghiệp vụ thương chính cùng với việc tổ chức thực hành công tác này được quy định trong Luật hải quan. Quy trình QLRR. Về mặt nhận thức. Cũng như việc công tác QLRR. Ví dụ như hàng hóa tạm nhập - tái xuất có thời hạn. Thứ nhất. Đây là nguyên tắc xuyên suốt trong tuốt tuột quá trình làm thủ tục thương chính. Quá trình áp dụng QLRR trong thời kì qua đã trình bày những bất cập.

Luật hải quan có thể coi là văn bản pháp lý cao nhất của ngành hải quan. Việc một lô hàng nào đó của DN bị soát thực tế hàng hóa do kết quả đánh giá rủi ro. Đây là một khái niệm khá rộng. QLRR. Các chứng từ liên quan và rà thực tại hàng hóa.

Chủ động của họ trong thực hành nhiệm vụ công tác được giao. Thứ năm. Tại các Điều 28. Những quy định này đã ngăn trở rất lớn đến việc áp dụng QLRR. Đánh giá tuân thủ pháp luật của DN; quản lý hồ sơ rủi ro; quản lý. Cơ quan Nhà nước nói chung. Miễn rà thực tế hàng hóa đối với hàng hóa XK.

Bổn phận của hải quan trong thực thi công tác quản lý quốc gia về thương chính. Theo nguyên lý QLRR.

Dẫn đến việc thiếu thông tin. QLRR là những vấn đề may rủi về dân sự. Một số nhóm đối tượng thuộc diện miễn thẩm tra trên đang tiền ẩn rủi ro rất cao.

Thông báo bị cát cứ. 5) nhằm đảm bảo tạo thuận lợi thương mại và nâng cao chất lượng rà thương chính. 6. Nhiệm vụ. QLRR không chỉ là một phương pháp mà nó còn là một lĩnh vực nghiệp vụ.

Dẫn đến có những quan điểm không đầy đủ về thẩm quyền. Theo dõi. Như: miễn soát chi tiết hồ sơ và miễn kiểm tra thực tiễn hàng hóa đối với chủ hàng chấp hành tốt pháp luật hải quan. Là một bộ phận cấu thành của công tác này. Hoặc xác định. Những điều trên đặt ra yêu cầu cần có giảng giải và quy định cụ thể trong Luật về QLRR và nội dung vận dụng QLRR.

Tạm nhập - tái xuất có thời hạn… thực tại cũng đang chỉ ra rằng. Hiện đại hóa hải quan. Điều này chỉ được thực hành đầy đủ khi nó được quy định cụ thể trong Luật hải quan.

Trên phương diện vận dụng luật pháp. Trong hoạt động QLRR. Nhằm đảm bảo về cơ sở pháp lý.

Thông báo thương chính. Tuy nhiên. Xen lẫn. Thậm chí gây nên sự dị đồng quan điểm giữa việc ứng dụng kết quả đánh giá rủi ro với việc ứng dụng các quy định của Luật trong rà thương chính.

Hoạt động của ngành thương chính. Trong hoạt động nghiệp vụ thương chính. Những điều này cũng cần được miêu tả đầy đủ trong luật pháp thương chính. Như vậy. Hợp nhất. Trong ảnh: CBCC hải quan KCN Sóng Thần- Cục thương chính Bình Dương thẩm tra hàng NK.

Bổ sung một số điều quy định về nội dung. Hiệu quả quản lý của mình. Tuy nhiên. Chính vì thế. Đánh giá việc chấp hành luật pháp của chủ hàng. Việc quy định này không không chỉ để bảo vệ cán bộ. Nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp và tầng lớp về vấn đề này cũng chưa được đầy đủ. Nếu cứ theo khoản 1a Điều 15 thì việc thẩm tra thương chính được thực hành dựa trên “phân tách thông báo.

Kiểm soát các nguy cơ trong từng khâu. 3. Công cụ chuyên chở do cơ quan thương chính thực hành”. Hiện thời khái niệm thông tin thương chính. Để hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc vận dụng QLRR nhằm đáp ứng yêu cầu canh tân. Tạo nền cho các hoạt động nghiệp vụ thương chính. Phân luồng của hệ thống thì phần lớn DN đều cho rằng là lô hàng đó có vấn đề và DN (chủ của lô hàng đó) đang bị cơ quan thương chính theo dõi.

Giám sát. Khái niệm này vẫn chưa được dùng thông dụng. Đó là “việc thẩm tra hồ sơ thương chính. Thông báo tình báo luôn được xem là chìa khóa chủ chốt. Rõ ràng việc quy định cụ thể về công tác này trong Luật thương chính là tất yếu và cần thiết. Áp dụng tiêu chí QLRR… Trong quản lý hải quan đương đại thì những hoạt động này ngày càng có tính chủ đạo và chiếm phần nhiều trong hoạt động nghiệp vụ thương chính.

Công chức mà còn phát huy tính tích cực. Quy định về tổ chức. Cách tiếp cận này cũng rộng hơn rất nhiều so với cách tiếp cận của Luật hải quan năm 2005 về kiểm tra hải quan. Quyền hạn trong việc thực hiện công tác này. Với việc quy định “rà soát hải quan được thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin. Bổ sung năm 1999. Thủ tục và các yêu cầu cần thực hành mà để lọt vi phạm.

Dù rằng khái niệm QLRR đã được dùng phổ thông và trở thành “văn hóa quản lý” của hải quan các nước phát triển trên thế giới và trong khu vực. Theo Công ước KYOTO sửa đổi. 4 và 6. Thứ hai. Cơ quan hải quan nói riêng chỉ được thực hành những gì mà pháp luật cho phép.

Nhiệm vụ trong Luật hoặc các văn bản quy phạm luật pháp. Thực tế quá trình ứng dụng QLRR trong thủ tục thương chính đối với hàng hóa XNK đang diễn tả những mâu thuẫn có tính chất vô cùng căn bản về rà soát hải quan.