Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2013

Mật mã Tây Giang rộng rãi - Đông Giang

Truyện kể rằng đó là một vùng đất giấu trong mình quá nhiều ẩn số, những truyền thuyết sinh ra và lớn lên, rồi chết chìm trong đất đỏ. Tôi cứ tìm mãi những thông báo ít oi về nơi ấy, để cho đến một ngày không giữ nổi chân mình, buộc phải xách ba lô, mua cho mình tấm vé đi Tây Giang, để lời đồn về những lá bùa yêu xứ ấy bước ra đời thực.

Theo kế hoạch ban đầu, chúng tôi sẽ men theo tỉnh lộ 604 để đến Tây Giang, nhưng vì muốn hành trình khép trọn một cung đường, nên cả đoàn quyết định vượt đèo Hải Vân, tiến về đất Thừa Thiên, từ đó theo hướng tây để đến A Lưới – một mảnh đất giàu truyền thống cách mệnh.

Một năm trước, tôi mài miệt với con đường bụi đỏ Tây Nguyên. Còn năm nay, là những con đường bụi trắng ngược dòng Hương Giang. Tháng 3 nào đối với tôi cũng thật rông dài. Vẫn chiếc xe cũ thuê ở Đà Nẵng, vẫn người bạn đồng hành cũ, chúng tôi chỉ lớn thêm một tuổi, và khác chăng là cha mẹ ở nhà có phần sốt sắng hơn chuyện yêu đương của bầy con. Bùa yêu quả nhiên là một liều thuốc tiên, là niềm tin để bọn ế sưng bấu víu.

Màn đêm bủa vây trên dãy Trường Sơn, một màn đêm dày đặc và mê hoặc ôm lấy chúng tôi. Tôi chẳng thấy chiếc xe của 2 người bạn đường đâu nữa, chỉ thấy xe mình mải miết chạy. Xung quanh chúng tôi không có lấy một ánh đèn. 5 ngày trong cuộc hành trình thì đến 3 ngày tôi mất liên lạc với từng lớp. Điện thoại trực ở chế độ mất sóng. Thế là vứt hết định vị, vứt hết trợ giúp nếu không may có gì bất trắc trên đường. Thôi thì xe nào biết xe nấy, cái khao khát được thấy điện đèn mỗi lúc lớn dần lên trong lòng tất tật. Mà đường dài lắm, đi mãi không thấy.

Tôi cũng chẳng biết mình đã vượt đèo Kim Quy và Tà Lương lúc nào. Chỉ nhớ con đường đêm xuyên qua khu rừng có hàng nghìn đom đóm nhấp nhánh. Thứ ánh sáng ấy lại khiến tôi hơi run sợ. Ngay cả một tiếng chim rừng đánh động cũng khiến tôi giật mình, huống hồ thứ ánh sáng lập lòe kia khi qua đèo.Lúc dừng lại ngang đường, thấy có tý sóng, tôi gọi cho 2 “tên béo” đi sau. Mà có biết hỏi nhau đi tới đâu đâu, chỉ biết ú ớ: Anh đã đi qua con đường rừng có toàn đom đóm chưa?Chẳng thể đợi nhau, xe của tôi lại cắm đầu chạy, như cố bỏ lại con đường đen đặc và tiếng dòng Hữu Ngạn đang róc rách xuôi về với biển.

8h tối, cuối cùng chúng tôi cũng gặp ánh sáng cuối con đường nơi ngã ba Bốt Đỏ. 4 kẻ giờ mặt mũi bơ phờ chả khác gì bọn thổ phỉ.

Vì A Lưới là địa danh nảy của chuyến đi, nên chẳng đứa nào có tý thông tin gì trong đầu. Công nghệ được thể phô diễn, chúng tôi nhờ google để kiêng kị điểm đến cho tương lai. Nào thì đèo Mẹ ơi, suối Máu, đồi Thịt Băm,... Phiên chợ của người đồng bào họp giữa đêm được nhắc trên báo chí, nhưng dân địa phương lại chưa từng nghe thấy. Có nhẽ nó không còn tồn tại.

Ngày nắng đẹp độc nhất trong cuộc hành trình đã chấm dứt. Chúng tôi không ngờ rằng, giông bão mới chỉ sắp bắt đầu. Đêm hôm ấy, trong giấc mơ tôi, đoàn tàu không số trôi bồng bềnh.

Làm sao mà quên được buổi sáng ở A Lưới sau cái đêm đắm chìm trong mộng. Trời không chiều lòng người cho lắm, vì mới được tăng cà phê, chúng tôi buộc đồ lên xe chạy một quãng thì đã mưa rồi. Mưa rả rích, buốt giá... Chả khác gì mưa xứ Bắc. Tưởng rằng chúng tôi thoát được đợt áp thấp, ngờ đâu mưa gió vẫn bám theo. Tôi ngồi sau nhâm nhẩm một mình trách lão xế già, chắc là không hợp phong thủy nên lần nào đi cùng nhau trời cũng làm mưa. Ý định nướng thịt ven suối hay trên đồi Thịt Băm tắt ngúm theo dòng nước đang chảy tràn trên mắt kính.

Hai chiếc xe tong tả chạy trên con đường mù sương vượt đèo Pê Ke, mà cũng chẳng hiểu vượt qua đèo đó để làm gì. Trên lưng đèo, một cặp vợ chồng đang hái rau má bám vào vách đá. Dưới chân núi, mấy người nữ giới già người Pà Ôi thủng thỉnh đeo gùi vừa đi bộ vừa ngậm tẩu. Mưa quá, chẳng có kẻ dại dột nào dám thò máy ảnh ra để tác nghiệp, cứ cắm mặt vào chạy.

Cả một buổi sáng quành trong mưa để tìm bản làng, mà vô vọng quá. Chung cục cả lũ kéo nhau lên phía biên thuỳ, theo con đường nhỏ đi vào cửa khẩu Hồng Vân. Có thể, nhiều năm sau, tôi sẽ quên hết toàn bộ những ký ức về A Lưới, nhưng tôi dám chắc tôi sẽ không quên những con đường nơi ấy, nhưng con đường chỉ có dốc dài đi lên mãi, hoang vu kéo dài trên những dãy núi phía biên giới Việt Lào. Hai bên đường mua mua nở hồng, vì cơn mưa chừng như đã làm phai sắc tím vốn có của loài hoa này.

Con đường vắng không có người hỗ tương. Chúng tôi không biết rằng, phía sau mình lúc này, là 4 anh biên phòng đang tất tả đuổi theo để chặn chúng tôi lại. Không hiểu sao và vì nguyên nhân gì, chuyến đi nào chúng tôi cũng bị quy kết là một bọn Tây. Có vẻ thông tin của đồng bào ở A Lưới quá bén nhạy, thế nên đi đến đâu, chính quyền đều tức thì bám theo sau.

Khi còn cách biên giới khoảng một ki lô mét, chúng tôi bị chặn lại. Chúng tôi được uống trà và tra vấn, được lưu lại quý danh trong sổ của đồn. Không còn cửa để vượt biên, cả lũ đành quay về, mò mẫn vào bản làng của đồng bào Pà Ôi ở một lưng dốc.

Có vẻ như gã xế già nhất đoàn sốt sắng với chuyện tình, nên ngay khi mò vào ngôi nhà sàn của cụ ông già nhất bản, gã đã hỏi ngay: Ở đây có bùa yêu không ông? Cũng bởi ở nhà, tôi đã gửi một link báo viết về bùa yêu, rằng là bùa ấy chỉ có người Cơ Tu ở Quảng Nam biết làm, còn đây là bản người Pà Ôi. Ế ẩm đúng là một cái tội, và khi người ta đã quá lứa lỡ thì thì có vẻ càng tỏ ra sốt sắng. Trên sàn nhà, cạnh bếp lửa đỏ, chúng tôi túm tụm hỏi chuyện chủ nhà. Người đàn ông không biết mình bao nhiêu tuổi, chỉ biết mình đã già và về gần với đất, nói tiếng Kinh theo kiểu tập đọc, đang ngậm tẩu ruốc rê. Chúng tôi cũng xin cụ được hút thử. Hiện nay ngồi ngẫm lại, có khi cái cảm giác lâng khâng của tôi mấy hôm này, bắt đầu từ hơi thuốc mình hút. Khói thuốc đượm và nặng nề theo tôi trong suốt một ngày dài.

A Lưới lấy đi của chúng tôi rất nhiều "máu" mà xác thực là vắt rừng A Lưới. Con đường mòn đi vào thác A Nôr gặp trời mưa nên trơn nhoét. Bốn đứa lốc thốc lội qua suối, đi sâu vào trong theo con đường đất trâu đi. Kẻ thì bị ngã, kẻ thì ướt nhẹp khi sải chân bước qua con suối toàn đá rêu trơn. Tôi bất chợt trở thành dũng sĩ bắt vắt. Thảng hoặc đang đi lại phải quay đầu lại vì tiếng kêu thảng thốt gọi tên mình. Chẳng đứa nào chuẩn bị cho sự trekking nảy sinh này cả. Chúng tôi tha lôi được bếp nước và mỳ tôm vào sát chân thác thì quên bật lửa.

1h chiều, bụng đứa nào đứa nấy sôi lục bục, cả lũ bóc mỳ tôm ra ăn sống, nhìn đống cồn khô và xoong nồi tiếc rẻ. Xui xẻo thế nào Trời bỗng đổ cơn mưa rừng. Tôi kinh sợ thứ mưa rừng đầm đầm ấy, nó khiến trên người tôi chẳng còn chỗ nào khô. Tôi đi cuối, chiếc áo chống nước lần trước tiên không chịu nổi mưa, ai bảo mưa lớn và mau hạt quá. Mưa cho đến tận khi bước chân qua đoạn suối rốt cuộc để trở về đường xe chạy.

Tôi đi chân đất, vừa đi vừa gỡ vắt. Rồi cũng thở phào khi được trở về đường quốc lộ, kiếm quán ăn nhét cơm vào cho ấm bụng. Lão xế già vô tư lự, chẳng để ý rằng mình đã nuôi béo một em vắt ở chân, lúc ăn xong thì em ấy đã bước sang tuổi " trưởng thành". Công cuộc Trekking ngờ đâu vẫn chưa dừng ở đấy...

Nghe đâu bữa trưa no say có phần nào ảnh hưởng đến trí tưởng của toàn đoàn. Mục tiêu tiếp theo của chúng tôi là Hambuger Hill ( tức đồi Thịt Băm hoặc đồi A Bia theo tiếng địa phương ) nhưng cả lũ mông muội đi tới đâu cũng hỏi Đồi Băm Thịt ở đâu, làm toàn dân và quân A Lưới ú ớ và lắc đầu. Trong tâm niệm của bọn Kinh thủ đô này, thì Băm Thịt hay Thịt Băm cũng cả như nhau. Dò lần chán chê, cả lũ cũng được chỉ cho đúng đường, lại là một con đường tiến dần về biên thuỳ.

Trong cơn mơ mộng, ai nấy đều tưởng tưởng ra rằng đồi Thịt Băm phải cao và đứng trên đỉnh có thể phóng tầm mắt ra xa, nên nao nức lên đường lắm. Đến khi cả lũ vật vã leo trên từng bậc đá, rồi đi xuyên qua những con đường mòn toàn lá rụng, hai bên đường là loại dương xỉ của rừng rậm nhiệt đới, lúc đấy cơn mơ mộng mới thực sự tan vỡ.

Chưa kể đến mới bắt đầu đi được chục bước chân, công an xã và bộ đội biên phòng đã lao đến giữ nhân cả bọn lại. Mặc dầu chúng tôi ra công giảng giải, xin xỏ, rồi đến màn gạ gẫm, nhưng đồng chí công an xã có vẻ kiên quyết không cho leo lên đồi. Rồi lại đấu gạ... Chung cuộc họ cũng đồng ý cho lên lóng sự giám sát của "chính quyền" là anh biên phòng đi theo để dẫn đường, quyết không để chúng tôi lạc sang nước bạn.

Đồi Thịt Băm nói xác thực hơn là một khu rừng, là ngôi mộ tập thể của hàng nghìn xác người trong chiến tranh chống Mỹ, nay trở thành hoang hóa, tĩnh mịch. Con đường lên đồi tưởng như hàng năm không có người đi lại. Chúng tôi bước chân mình trên những lớp lá khô, mồ hôi như tắm.

Từ lâu rồi, tôi đã bỏ hẳn trekking ra khỏi hành trình của mình, thế mà hôm đấy, tôi nhất quyết không tụt lại phía sau, cứ gắng bước giữa khu rừng toàn bướm ranh. Khi ấy, bạn đồng hành của tôi bảo: thôi từ nay, chúng mình đổi tên Đèo Mẹ Ơi, Đồi Thịt Băm thành những cái tên hoa mỹ hơn đi, như đèo đom đóm và đồi bươm bướm này. Vì thân đã quá rời rã sau một ngày vật vã đi lại hết lối này đến lối khác, nên chúng tôi quyết định tự thưởng cho mình đi tắm suối khoáng A Roàng. Hai chiếc xe lại cắm cúi chạy trong mưa, bóng tối đang dần xuống.

Đường từ suối khoáng về Prao, thị trấn của Đông Giang là con đường dài nhất tôi từng đi. Không phải ở khoảng cách, mà bởi bóng tối, mưa rét và sự hoang sơ. Suốt chặng đường 100km ấy, chỉ có đúng chúng tôi, lầm lũi và run rẩy. Cơn mưa rừng Trường Sơn cứ rơi mãi không thôi. Lần trước nhất tôi không ngủ, dù đã mệt nhoài. Tôi hát, những bài hát về Trường Sơn mưa gió. Tôi lấy lý lẽ rằng " em lo anh ngủ gật nên cố hát cho đỡ sợ " Nhưng sự thật là chính bản thân tôi hôm ấy, sợ hãi đã lấp đầy...

Con đường đêm về với Prao – trung tâm huyện Đông Giang cứ xa mãi, xa mãi. Mưa gió táp vào mặt như thể thử lòng người. Tôi cảm giác thân chẳng còn cử động nổi nữa, lưng đau, chân sưng lên. Dù rằng đã mặc áo tơi, đi ủng tử tế, tôi vẫn cảm nhận được rõ ràng cái ướt lạnh của đêm mưa.Bộ áo quần ấm độc nhất đã ướt và bẩn sau ngày ở A Lưới. Những cơn sốt ngắn xuất hiện. Đoàn 6 người chúng tôi hội ngộ, mừng vui nhắc chuyện bùa yêu. Bạn đồng hành đi theo tỉnh lộ 604 từ Đà Nẵng đến Đông Giang trước đã kịp lân la dân tình hỏi han, gắp nhặt thông tin trước. Vậy là bùa yêu có thật, người cho bùa vững chắc có thật.

Chúng tôi đã không chọn đến thăm những di tích cách mệnh nằm rải rác trên tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử, thuộc đất Đông Giang. Mà đi theo một con đường khác. Tôi muốn được đi những chuyến đi mà trải nghiệm văn hóa là điều mà tôi đặt trên tất tật. Tôi chũm để nhớ tên bản làng trước hết chúng tôi đến thăm ở Đông Giang, mà không được. Tôi chỉ nhớ nó nằm cách đường Hồ Chí Minh 5km, đường đất đỏ. Con đường mới mở, đi qua cầu treo, men theo vách núi và con suối nhỏ vào tận bản. Bữa ấy, trời chưa kịp mưa. Mà nếu mưa thì chắc lũ chúng tôi cũng không mò mẫm được vào bản Cơ Tu ấy. Đó là nơi mà chúng tôi đã dành nhiều thời gian hơn quơ, để lê la trên từng góc nhỏ của nhà Gươi, và nghe Mẹ Cơ Tu kể chuyện.

Ở đó không có điện, nhưng mắt trẻ mỏ vẫn sáng.
Ở đó không có nước sạch, nhưng lòng người vẫn trong.

Bên bếp lửa hồng của Mẹ, một lũ người Kinh và mấy em nhỏ Cơ Tu nghe Mẹ kể chuyện. Đàn ông và nữ giới khỏe mạnh đã đi làm nương rẫy, chỉ còn lại sức già và trẻ nhỏ. Hôm ấy là cuối tuần, lớp học đóng cửa. Lớp học chính là bảng đen phấn trắng, bàn ghế kê giữa nhà Gươi. Trong lớp học giờ đây, bạn đồng hành lăn lóc ngủ. Đêm qua chắc bạn có một đêm trắng, tôi đoán vì rộn rực chuyện sắp tìm được bùa yêu nên mất ngủ mà thôi.

Suốt cả chuyến đi ấy, điều lưu lại trong lòng quờ là sự thân thiện, đôn hậu của những người con của rừng núi Trường Sơn. Những người Cơ Tu lúc nào cũng mở lòng, mở dạ để đón chào và kể chuyện cho chúng tôi nghe. Có thể là câu chuyện của cộng đồng họ, cũng có khi là câu chuyện của chính thế cục họ. Bếp lửa ấm hồng của Mẹ cứ giữ chân chúng tôi mãi. Lúc ấy tôi đã ước, giá mà không phải đi tiếp nữa, cứ ở lại đây cho hết kỳ nghỉ có phải tuyệt biết bao. Nhưng còn bùa yêu, còn những ngày được sống giữa tình đất tình người Tây Giang còn lại kia, chúng tôi đành thu vén sự thảnh thơi. Để xuất hành.

Ngày còn ngồi trong giảng đường đại học, câu chuyện mà tôi nhớ nhất từ người thầy của mình là câu chuyện về tục săn đầu người của người Cơ Tu. Những sợ hãi xưa cũ đã không còn nữa khi tôi đặt chân đến mảnh đất vốn hoang dã của cộng đồng này. Câu chuyện về những chiếc đầu người treo lủng lẳng quanh nhà Gươi chỉ còn trong quá vãng bóng gió. Một bản làng hùng mạnh, không còn là một bản làng có nhiều đầu người nhất. Thay vào đó, thú tội rừng được treo khắp nhà, cùng với súng săn và cung tên. Thêm vài chiếc bằng khen, ảnh Bác Hồ được treo trịnh trọng. Cách mệnh đã làm thay đổi vơ, trong sợi dây hiền hòa và có nhân. Những căn nhà Gươi dĩ vãng nhuốm máu, máu biểu tượng cho mùa màng bội thu, cho sức mạnh của một tộc người - giờ đây trở nên bằng lặng dưới trời Trường Sơn xanh thẳm.

Vẫn thoảng lại đó, một tẹo gì của những ngày tháng sinh tồn cũ, tường nhà Gươi của người Cơ Tu không bao giờ bịt kín như các nhà cộng đồng khác, mà là những tấm ngỗ ngang, ghép thưa như chiếc cửa sổ dài. Tại đó, ngày xưa, khi những ngày cả bản làng tụ tập, người ta vẫn có thể quan sát được xung quanh, tránh kẻ thù và thú dữ. Còn bây chừ, tường nhà ấy, là nơi mà lũ chúng tôi ngồi dựa vào, nhìn mơ màng về phía những nóc nhà lô nhô, nơi những đứa trẻ mỏ mắt sáng, tóc xoăn, da ngăm đen đang chơi đùa, vui vẻ với bài ba chiếc kẹo rẻ tiền mà người lạ mặt mang đến.

Trong những cuộc du hoan vô tận của mình, có thỉnh thoảng chúng ta vô tình lấy đi của người khác những giây phút riêng. Như tôi và bạn đồng hành, đã hấp tấp dừng xe trước cảnh một em bé gái người Cơ Tu, ngồi ôm bó hoa xuyến chi bên đường. 2 chúng tôi đã mang đến cho em một sự sợ hãi, khi chiếc xe bị phanh gấp, tôi nhanh như chớp lôi máy ảnh ra. Em bé bỏ lại bó hoa, chạy đi và òa khóc. Lúc ấy, tôi chỉ muốn mình không có máy ảnh nữa, tôi cũng không lấy đi giây khắc đẹp đẽ của riêng em nữa. Tôi vô tâm đến mức túi kẹo lại để ở xe khác. 2 đứa đành quay đi, để lại sau lưng là những giọt nước mắt thơ trẻ và những cánh hoa xuyến chi trắng bong vụng dại.

Chúng tôi đã đi rất nhanh khỏi những giọt nước mắt ấy. Nửa tiếng sau, tôi quay lại, vẫn chỗ cũ, khi mắt em đã khô, đưa vài chiếc bỏng, như một lời xin lỗi. Tôi không chụp ảnh nữa, quay lại, chỉ đơn giản là quay lại mà thôi. Tôi nhận ra rằng những gì đẹp đẽ không hẳn là những bức ảnh, mà ở trong chính tâm hồn mình.

Chipchina(Autocar Vietnam)