Chúng tôi cũng đang khuyến khích các phòng GD&ĐT mua Account truy cập TV số cho các trường (mỗi user khoảng 300 ngàn đồng/năm) để các trường có được nguồn TV số phong phú, đa dạng hơn…”
Trường có trên 1. Thực tiễn vẫn chỉ là áp dụng quản lý danh mục sách để khảo tra dễ dàng cho học sinh và cha. Sách đầu tư mới nhiều hơn, tìm thư mục dễ hơn, thư viện rộng rãi tĩnh ….Sau đó đến thư viện báo với thủ thư sẽ lấy sách ngay. Cô Huỳnh Mai cũng san sẻ niềm vui, khi thư viện tổ chức các tiết học qua phim ảnh, tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ sáng tạo như vẽ tranh, làm đồ dụng học tập… Thư viện lại là nơi học trò vừa học vừa thư giãn.
Để duy trì được lượng bạn đọc đến thư viện, hàng năm các nhà tài trợ ủng hộ hàng ngàn bản sách mới, nhà trường xuất kinh phí 12 triệu đồng mua thêm sách.
Trước hết là mua một account (Account) để kết nối với TV số của TV An Giang. Ngành GD đang kết hợp cùng với TV tỉnh để cung cấp cho sách tài liệu số hóa cho vơ các trường THPT. Thư viện trang bị 6 máy Laptop: 1 máy cho thủ thư quét mã vạch vào thẻ thư viện của bạn đọc.
Cho biết: “Thư viện Tổng hợp tỉnh An Giang hiện đang nối kết với hệ thống TV số trên cả nước. Theo thống kê của ngành GD An Giang, cán bộ TV trường phần lớn trình độ trung cấp và cao đẳng, chỉ có một số ít trình độ ĐH.
Chúng tôi đã thăm Trường THCS Nguyễn Thị Lựu, TP Cao Lãnh, một trong những trường chuẩn, trọng tâm chất lượng cao của tỉnh để khảo sát hiệu quả của việc ứng dụng CNTT trong “thư viện thông minh”. Có như thế mới kéo học trò đến thư viện.
Hai năm gần đây có nhiều thư viện trường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý danh mục sách. Khi nêu những mô hình đột phá này, người viết cũng không quên những công trình nghiên cứu riêng lẻ của cha nội, nhóm xuân đường để làm phong phú hệ thống tài liệu tham khảo trong giảng dạy.
Trường thực hành dự án “thư viện thông minh” vào tháng 12/2011, đỡ cực hơn nhưng “bạn đọc” lại tăng gấp 5 lần. Nhóm PV Cần Thơ. Vấn các em học sinh nhiều hơn. Thư viện trường hiện có 20. Còn 5 máy để độc giả tra danh mục sách. Nhưng muốn có được điều đó, phải đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đương đại và con người cũng được đào tạo bài bản.
Cô Xuân Mai, thủ thư Trường THCS Nguyễn Thị Lựu (Đồng Tháp) tổ chức góc sáng tạo kết liên với thư viện số Đặt vấn đề thư viện số với thầy cô giáo cũng như lãnh đạo ngành GD An Giang, ai cũng ý hợp tâm đầu và hy vọng sẽ thực hành tốt trong thời gian tới. 500 học sinh. Khi vào nề nếp rồi thì tôi phải huy động thêm 15 học trò làm hiệp tác viên.
Mỗi buổi phải có cộng tác viên hỗ trợ lấy sách theo đề nghị “bạn đọc”, còn thủ thư chỉ có quét mã vạch thẻ thư viện vào máy thôi cũng đã ngất nghểu rồi!”. Chả hạn một đay nghiến ở Trường THPT chuyên Bến Tre đã viết phần mềm số hóa tài liệu văn bản bằng cách chụp trang sách, chuyển định dạng PDF.
Theo ông Nguyễn Văn Hòa, Trưởng Phòng CNTT và Thiết bị - Thư viện, Sở GD& ĐT Đồng Tháp cho biết, có 20% số trường trên địa bàn tỉnh vận dụng CNTT trong quản lý danh mục thư viện. Các tài liệu nghe nhìn, giáo án điện tử chính yếu là trang bị máy tính với đường truyền Internet tốc độ cao trong thư viện để phục vụ nghiêm đường và học trò truy cập trên mạng chứ chưa xây dựng kho thư viện điện tử.
Thư viện sáng dạ Ở Đồng Tháp, hồ hết thư viện hoạt động theo mô hình truyền thống, “độc giả” chọn sách theo tủ “fit” danh mục. Mô hình “thư viện sáng dạ” do Samsung tài trợ với phần mềm quản lý danh mục. Ở trường này lưu trữ hàng trăm tài liệu tham khảo có dung lượng hàng vạn trang sách. Học trò, đay đả có thể truy cập từ bất cứ máy nào vào website của trường để chọn thư mục sách cần tìm chứ không hẳn là máy của thư viện.
Đó cũng là dạng tài liệu số. Nếu có một cơ chế bàn luận thông báo thì đây là nguồn tư liệu số hóa vô cùng phong phú. Tuy nhiên, chưa có đầu sách nào được số hóa thành sách điện tử.
000 bản sách các loại. Điển hình như thư viện Trường THPT chuyên Nguyễn Quang Diệu, THCS Nguyễn Thị Lựu, TH Trường Xuân 1. Cô Nguyễn Thị Huỳnh Mai, thủ thư độc nhất vô nhị ở đây tâm sự: “ ứng dụng CNTT vậy mà còn hết hơi luôn. Các trường cũng có thể kết nối với TV số trên cả nước với nguồn tài liệu số rất lớn, có cả các loại sách GD và sách tham khảo.
Bây giờ công tác TV được chú trọng, nguồn tài liệu, sách vở khá nhiều nên cán bộ TV phải rất vất vả làm thuê tác thống kê, bổ sung, mỏng, phục vụ bạn đọc… Tuy nhiên, An Giang đã tìm ra giải pháp để dùng nguồn TV số có sẵn vốn rất đa dạng, phong phú mà không cần phải thêm trang thiết bị hay con người.
Chưa đủ, còn phải vận động học trò, phụ huynh góp sách vào trường đầu tư cho con em mình. Ông Lý thảnh thơi. Kế tiếp là phải số hóa một lượng sách, tài liệu khổng lồ trong khi nguồn nhân lực TV trường học và TV công cộng ở địa phương vẫn còn rất ít và trình độ không đồng đều.