Thứ Năm, 12 tháng 9, 2013

Cuộc tranh giành quyền lực giữa lạ lẫm các “nhóm lợi ích”.

Quy trình mà các quyết định lập pháp, xét xử, điều hành và hành chính được đưa ra đều chịu tác động bởi các sức ép và phản sức ép của các “nhóm lợi ích” – vốn thay bảo vệ và gia tăng vị thế quyền lực của họ

Cuộc tranh giành quyền lực giữa các “nhóm lợi ích”

Chẳng thể phủ nhận rằng trong lịch sử, bất chấp những điều kiện về chính trị, kinh tế và từng lớp, các quốc gia đã đụng đầu nhau trong cuộc chiến về quyền lực.

Dù rằng sự thật là một số thiết chế và dàn xếp tầng lớp đã luôn tồn tại trong kí vãng, nhưng không cố định có tức là chúng sẽ tiếp chuyện tồn tại trong tương lai. Khát khao được sống, duy trì nòi giống, và áp đảo người khác là lẽ thường đối với mọi con người[12].

Họ cho rằng chủ nghĩa từng lớp quốc tế sẽ xóa bỏ sự đấu tranh quyền lực trong chính trị quốc tế và đem lại hòa bình vĩnh viễn. Do vậy Cordell Hull, lúc đó là Ngoại trưởng, đã tuyên bố vào năm 1943 khi trở về từ Hội nghị Matxcơva, sự kiện đặt nền tảng cho Liên Hợp Quốc, rằng tổ chức quốc tế mới này đồng nghĩa với việc kết thúc chính trị cường quyền và mở ra một thời đại mới của hiệp tác quốc tế.

[10] Xem phần VIII [11] Để biết những tranh cãi hữu ích về vấn đề này, xem Malcom Sharp “Aggression: A study of Values and Law”, Ethics, Vol.

Chính trị trong nước và quốc tế đều là những sự tranh giành quyền lực, chỉ khác nhau bởi những điều kiện mà tại đó sự giành giật diễn ra –bối cảnh trong nước hay không gian quốc tế.

154. “Ở một số cuộc bầu cử trong ngày mai”, Cobden nói, “chúng ta có thể dễ dàng thấy bài rà soát “không còn chính trị quốc tế” sẽ được ứng dụng với những người đề nghị được trở nên đại diện cho các nhóm cử tri tự do”[7]. Trong thời kì gần đây, niềm tin rằng sự giành giật quyền lực có thể bị xóa bỏ khỏi chính trường quốc tế đã được kết hợp với các cố gắng to lớn trong việc tổ chức lại thế giới, như là Hội Quốc Liên và Liên Hợp Quốc.

W. Tuy nhiên, cảnh huống lại trở thành khác biệt khi chúng ta không phải đang coi xét các thiết chế và dàn xếp từng lớp tạo ra bởi con người, mà xem xét những yếu tố tâm sinh lý mà duyệt đó dần dần xã hội được tạo nên. 195 [8] New York Times, November 19, 1943, p,I.

Cuộc đua ganh giữa các công ty cũng như tranh chấp giữa người lao động và nhà tuyển dụng thẳng tuột diễn ra không chỉ vì, và đôi khi không phải phải đốn bởi, các lợi ích kinh tế, mà còn vì sự ảnh hưởng đối với đối thủ và với các cá nhân và nhóm người khác, hay nói cách khác là quyền lực. [9] House of Commons Debates (Fifth Series, 1946), Vol 419 p 1262.

Xem Speeches by Richard Cobden (London, The Macmillan Company,1870), I, 79: Political Writings (New York: D Appleton and Company, 1867), II, 110; Thư đề ngày 12/4/1842 gửi Henry Ashworth, được trích trong John Morley, Life of Richard Cobden (Boston: Roberts Brothers, 1881), p.

Tuy nhiên, không kể đến những điều kiện từng lớp cố định, sự phản bác quan yếu nhất đối với ý kiến cho rằng cuộc chiến quyền lực trong chính trị quốc tế chỉ là một sự cố lịch sử lại xuất phát từ bản tính của nền chính trị trong nước.

Nên chi, mối quan hệ này có thể dự đoán về xung đột trên trường quốc tế giữa chính sách của cường quốc đang áp đảo nguyên trạng và đế quốc đang trỗi dậy. Đặc biệt, khát khao chiếm ưu thế vượt trội là yếu tố cấu thành của mọi sự liên kết giữa con người, từ gia đình ưng chuẩn những mối liên kết thân hữu anh em hoặc quan hệ nghề, và từ những tổ chức chính trị địa phương cho tới cấp quốc gia.

[7] Trích trong A,C,F. Beales, A Short History of English Liberalism, p. Trong các tuổi tranh cử, bầu cử hội đồng lập pháp, trong các vụ tranh tụng trước tòa, những quyết định hành chính và phương thức thực thi – trong tuốt tuột các hoạt động này con người đều cầm duy trì hoặc thiết lập quyền lực của mình lên người khác.

Mặc dù các nhà nhân chủng học chỉ ra rằng một số tộc người nguyên thủy một mực dường như không bị ham muốn quyền lực chi phối, chưa ai từng cho thấy cách thức tái hiện lại tình trạng tư duy cũng như các điều kiện sống của họ trên một phạm vi toàn cầu mà qua đó có thể xóa bỏ được sự giành giật quyền lực khỏi đời sống quốc tế. Các nhóm tầng lớp, nhóm thân hữu, các khoa giáp và các tổ chức kinh dinh đều là bối cảnh của sự đua tranh quyền lực liên tục giữa các nhóm vốn hoặc nạm duy trì quyền lực hiện có hoặc khát khao chiếm đoạt quyền lực lớn hơn.

Sự suy giảm của quyền lực chính trị  Khát vọng quyền lực trở thành một nhân tố đặc trưng của chính trị quốc tế, vì trong mọi hình thái chính trị, chính trị quốc tế cấp thiết phải là thứ chính trị quyền lực. Cuối cùng, vớ đời sống chính trị của một nhà nước, đặc biệt là đối với những nhà nước dân chủ, từ cấp độ địa phương cho tới cấp độ nhà nước, là một sự tranh giành quyền lực liên tiếp.

Sức mạnh tương đối của các khát khao đó phụ thuộc vào các điều kiện xã hội – những thứ có thể phù hợp với một khao khát nào đó nhưng có khuynh hướng kìm hãm những khao khát khác, hoặc là những thứ có thể cản ngăn sự bằng lòng của từng lớp đối với những tả nhất thiết của những khát khao này, trong khi lại khuyến khích những cái khác. Từ khi các cuộc chiến tranh của Napoleon chấm dứt, càng có nhiều nhóm ở thế giới phương Tây tin rằng cuộc chiến giành quyền lực trên trường quốc tế chỉ là một hiện tượng trợ thì, một sự cố lịch sử vốn kiên cố sẽ biến mất một khi những điều kiện lịch sử đặc biệt tạo nên chúng bị xóa bỏ.

[6] “Chúng ta hãy xóa bỏ hàng rào quan thuế, và liên minh giữa mọi dân tộc Do vậy sẽ được thiết lập, sự kết đoàn của họ được công nhận, và sự đồng đẳng được tuyên bố ra đời. 4, Part II (July 1947). Tỉ dụ, xem Warder Allee, Animal Life and Social Growth (Baltimore: The Williams and Wilkins Company, 1932) và The Social Life of Animals (New York: W.

Trong môn phái tư tưởng tự do này, Woodrow Wilson chính là chính trị gia có tài hùng biện và có sức ảnh hưởng nhất. Trong suốt thế kỉ XIX, những người theo chủ nghĩa tự do ở mọi nơi san sớt niềm tin rằng chính trị quyền lực và chiến tranh là tàn dư của một hệ thống cai trị lỗi thời và với chiến thắng của chế độ dân chủ và các chính phủ dựa trên hiến pháp đối với chính thể toàn trị và độc tài, sự hòa hợp quốc tế và nền hòa bình vĩnh cửu sẽ đánh bại chính trị quyền lực và chiến tranh.

Nếu xét đến sự tồn tại rộng khắp của giành giật quyền lực trong vơ các mối quan hệ tầng lớp và mọi các cấp độ tổ chức tầng lớp, có ngạc nhiên không khi chính trị quốc tế thế tất chính là chính trị quyền lực? Và chẳng phải đáng sửng sốt hơn nếu xem sự tranh giành quyền lực chỉ là ngẫu nhiên và là một thuộc tính không bền vững của chính trị quốc tế trong khi nó lại là một yếu tố liền và cần thiết của sờ soạng mọi nhánh hoạt động của chính trị trong nước?    Kì cuối: nguồn cội làm suy giảm quyền lực    Biên dịch:  Võ Hoàng Phương Nhung  ; hiệu chính:  Lê Hồng Hiệp   Bài được đăng lại từ Nghiencuuquocte.

[8] Philip Noel-Baker, khi đó là Quốc vụ khanh Anh, vào năm 1946 đã tuyên bố trước Hạ viện rằng chính phủ Anh đã “quyết tâm sử dụng các thể chế của liên hiệp Quốc để xóa bỏ chính trị cường quyền, để chuẩn y thể chế dân chủ giúp cho ý chí người dân sẽ có vị trí thống lĩnh.

[12] Các nhà động vật học chỉ ra rằng thèm muốn áp đảo đồng loại được cho là có cả trong giới động vật, như là gà hoặc khỉ, những giống loài tạo ra sự phân cấp từng lớp dựa trên nền móng của ý chí và khả năng thống trị đồng loại. Nếu sự khát khao quyền lực chẳng thể bị xóa bỏ trên toàn thế giới, những người thoát khỏi chúng có thể sẽ trở thành nạn nhân đối với quyền lực của những người khác.

Ở cấp độ gia đình, thực chất của mâu thuẫn tiêu biểu giữa mẹ chồng/vợ và con dâu/rể nằm trong việc giành giật quyền lực, sự bảo vệ một vị trí quyền lực đã được xác lập đối với cầm cố hình thành một vị trí quyền lực mới. Khi tồn tại một cách thức tổ chức các hoạt động kinh tế theo hình thức độc quyền thì sẽ không có sự cạnh tranh để giành quyền lực kinh tế; và trong các hệ thống kinh tế cạnh tranh, những thể hiện khăng khăng của việc tranh giành quyền lực kinh tế bị đặt ngoài vòng luật pháp, trong khi một số khác lại được khuyến khích.

57, No. Net   ---------------------------------    chú giải:  [4] Emancipate Your Colonies (London: Robert Heward,1830) [5]“thương mại tự do! Đó là gì? vì sao lại phá dỡ nhừng hàng rào ngăn cách giữa các quốc gia: những hàng rào đó, nép mình đằng sau chúng là những cảm xúc của sự kiêu hãnh, báo thù, long căm hận và cả sự ghen tỵ, những thứ mà sẽ đôi khi bùng nổ ra ngoài ranh giới của họ và nhần chìm tất tật các nhà nước trong biển máu.

Bản chất của chính trị quốc tế là đồng nhất với bản chất chính trị trong nước. Đối với Mác và những người ủng hộ ông, chủ nghĩa tư bản chính là duyên do của chiến tranh và sự chia rẽ quốc tế.

“Hãy giải phóng các thuộc địa của các ngài đi!” là lời khuyên của ông giành cho các chính phủ, và các cuộc chiến tranh cũng như xung đột quốc tế kiên cố sẽ biến mất. [11] Sẽ là vô ích và thậm chí là tự phá hủy mình khi giải thoát dân tộc nào đó trên trái đất khỏi sự ham quyền lực trong khi vẫn để thèm muốn đó tiếp tục tồn tại với những dân tộc khác.

Vì vậy, nếu lấy thí dụ chỉ trong khía cạnh quyền lực, hầu hết mọi từng lớp lên án việc giết chóc như là một dụng cụ để đạt được quyền lực trong tầng lớp, nhưng mọi xã hội lại khuyến khích việc diệt kẻ thù trong cuộc chiến giành quyền lực được gọi là chiến tranh.

Do đó, Jeremy Bentham tin rằng sự tranh giành thực dân địa chính là căn nguyên cho mọi xung đột quốc tế. ”; “Thương nghiệp tự do là luật quốc tế của Đấng Vạn Năng”, và thương nghiệp tự do và hòa bình được xem như là “một và cùng một nguyên nhân”. Norton and Company, Inc, 1938).

”[9] Dù chúng ta còn nhiều chuyện phải bàn đến sau này về những lý thuyết này cũng như những kì vọng mà chúng mang lại,[10] không quá để cho rằng sự giành giật quyền lực rất phổ thông cả về không gian và thời kì và là một sự thật chẳng thể chối cãi.

Trong khi sự thực này nhìn chung được nhận trong thực tại ngoại giao quốc tế, thì nó lại thường bị chối bỏ trong các tuyên bố của giới học giả, các nhà tuyên truyền và kể cả các chính trị gia.

Các nhà độc tài nhìn một cách không mấy thiện cảm đối với sự khát khao quyền lực chính trị của những công dân nước mình, nhưng các nền dân chủ lại coi việc tham dự hăng hái vào việc cạnh tranh quyền lực chính trị là một nghĩa vụ công dân. [4] Những người ủng hộ thương nghiệp tự do, như Cobden[5] và Proudhon[6], đã bị thuyết phục rằng việc dỡ bỏ các rào cản thương nghiệp là điều kiện độc nhất để xác lập sự hòa hợp vĩnh cửu giữa các quốc gia và thậm chí còn có thể dẫn đến sự biến mất hoàn toàn của chính trị quốc tế.

Ý kiến này có thể bị phê phán trên cơ sở rằng những kết luận rút ra từ kí vãng là không thuyết phục và rằng việc đưa ra những kết luận như vậy luôn là chiêu thức của những kẻ chống lại sự tiến bộ và canh tân. ” – Oeuvres complète (Paris, 1876), I, 248.