Đặc biệt, giống mới có khả năng kháng được bệnh gỉ sắt để đưa vào sinh sản đại trà, tạo điều kiện cho các nông hộ, doanh nghiệp thay giống cũ, nâng cao hiệu quả kinh tế, chất lượng sản phẩm.Trong đó có 11 giống cà phê vối, 2 giống cà phê chè đã được Bộ NNPTNT công nhận. Theo Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên, 11 giống cà phê vối mới gồm: 4/55, 1/20, TR4, TR5, TR6, TR7, TR8, TR9, TR11, TR12, TR13 đều sinh trưởng tốt, phân cành nhiều, cho năng suất từ 4,5 - 7 tấn cà phê nhân/ha. Đặc biệt, kích cỡ hạt được cải thiện đáng kể, trọng lượng 100 hạt (nhân cà phê) đạt từ 17 - 23 gram, tăng từ 4 - 9 gram so với các giống cũ. Một trong những ưu điểm trội của các giống cà phê vối mới này là có khả năng kháng được bệnh gỉ sắt rất cao, với chỉ số bệnh biến động từ 0 đến 0,1%. Đối với các giống cà phê chè (từ TN1- TN10, trong đó 2 giống TN1, TN2 đã được Bộ NNPTNT công nhận) có thời gian sinh trưởng trung bình, cây thấp, bộ tán gọn, lóng đốt ngắn. Cụ thể, sau 30 tháng trồng, cây đa phần chỉ cao 140cm, chiều dài cành cấp 1 khoảng 75- 80cm, có trên 20 đốt, đến thời kỳ kinh dinh cho năng suất từ 4 - 5 tấn cà phê nhân/ha và kháng rất cao với tuốt các nòi sinh lý của bệnh gỉ sắt. Quang Huy |