Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2013

Theo chân hay hơn kẻ lữ hành

Đọc sách

Cây bút của núi rừng Tây Nguyên

Trước nhất, có nhẽ vì một sự gặp gỡ trong tính cách ngang tàng phiêu lãng không ngừng nghỉ với núi rừng, hít thở, ăn nằm, học hỏi và lớn lên trong cái minh triết của núi rừng.

Trong cuộc phiêu lãng đầy tự do đó, Nguyễn Hàng Tình đồng cảm và kể câu chuyện những thân phận cũng phiêu lưu, di dịch mà anh gặp trên đường: nhóm dân cày miền xuôi thiên cư mạn ngược để làm mướn trong mùa thu hoạch càphê (Mùa dân cày thiên cư), những người “len ong” trong mùa khô Tây Nguyên (Một kiếp theo ong), những người chăn bò du mục yêu tự do trên thảo nguyên M’Drăk (Trên thảo nguyên M’Drăk) hay những ngư phủ sống “cuộc thế không kịch bản”, giang hồ khắp cõi Đông Dương một hôm cất câu vọng cổ buồn ray rứt giữa đại ngàn (Ngư phủ trên núi)... Anh viết về họ như họ là người đồng thuyền, đồng hành với mình.

Trong những thiên phóng sự, bút ký của Nguyễn Hàng Tình, nhân vật dù là anh chàng mười sáu tuổi đánh xe thổ mộ ở thị trấn Dran hay nhà sáng chế chiếc máy gặt lúa, từ ông chủ trang trại nho gốc Pháp tại Tà Nung hay một hành giả chủ trang trại lan trên cao nguyên Lang Biang... Tuốt tuột đều mang trong mình cái hắc búa của những sinh phận quen phiêu dạt và phần nào đó, họ có cái kiêu hãnh trong đơn chiếc, tự do trong dấn thân. Và nữa, họ có cái nghệ sĩ tính trong hành xử với cuộc thế. Những trang ký sự nhân vật không chỉ diễn đạt rõ nét chân dung, tâm hồn con người, mà phản ánh bóng vía tính cách, gửi gắm suy tư của người viết, một nhà báo độc lập tìm thấy sự san sớt trong khát vọng, ý hướng sống.

Tiếng kêu nhói lòng cho thiên đường đã mất

Nhưng nói đến Nguyễn Hàng Tình, có lẽ đặc sắc nhất vẫn là những thiên ký sự về một thiên đàng đã mất – đó là rừng, là cái mà anh gọi là chốn hoang sơ – đang từng ngày từng giờ bị những đầu óc tính liệu thực dụng, vô trách nhiệm ra sức đào bới, tranh giành, truất hữu. Là Easô của những cuộc tùng xẻo, săn bắn một thời dậy sóng dư luận (Easô, Khu rừng chìm nổi), là những mảng rừng Ninh Sơn, Ninh Thuận bị xóa trắng với cái lý lẽ quẩn quanh khốn cùng của đám lâm tặc (Nước mắt lâm tặc), là câu chuyện con voi quậy ở núi rừng Đạ Tồn như chứng cớ cho một bi kịch về môi trường (Vác đơn đi kiện voi rừng), hay sự biến mất của những dòng thác đẹp tót vời vì các dự án thủy điện đã giết chết những dòng sông Tây Nguyên (Đi tìm thác đổ)... Những trang viết với thông điệp trực tiếp, mạnh mẽ, không chỉ dừng ở tính thông tin nhất thời, mà đi đến chất thơ trong thể hiện khiến ta tiếc, chạm đến cái hài hước cay đắng khiến ta ngậm ngùi day dứt. Chất nhân cảm, sự tinh tế, hàm lượng suy tư nhào trộn trong một phong cách văn học khoáng đạt thiên nhiên là điều làm nên nhựa sống vượt trên thời sự của ký Nguyễn Hàng Tình.

Nền văn minh thảo mộc đã bị thất thủ. Đây đó trong những cánh rừng còn sót lại, Nguyễn Hàng Tình tìm cách phơi bày cái thực trạng tệ hại nơi những lời khẩn cầu đầy nhố nhăng cất lên nơi xác cổ tháp Yang Prông hoang tàn sót lại giữa rừng sâu (Sự suy tư của cổ tháp giữa rừng già), của những vụ tính sổ đẫm máu, thế giới ám muội cùng quẫn trong các lán trại vàng thượng nguồn dòng Da Dang, Krông Ana (Thế giới “bờ bãi”), của lối đánh cá tận diệt trên hồ Lăk (Quần thảo hồ Lăk), chính sách phá rừng trồng cao su đầy thiển cận phá vỡ hệ sinh thái rừng ở Ia Puch, Ia Boòng, Ia Mer (Mủ cao su thiêu bóng Chư Prông)...

Nguyễn Hàng Tình hiện là ký giả tự do sống ở Đà Lạt; từng đại diện cho báo Tuổi Trẻ tại Nam bộ và Tây Nguyên.

Các ký sự đường rừng của ông từng ban bố trêncần lao, Sài Gòn Tiếp Thị, Văn Nghệ Trẻ, luật pháp TP.HCM,
Tuổi Trẻ...

Nạo vét từng tấc đất thiên nhiên để làm giàu trước mắt chưa đủ, con người còn thu dọn sạch nhẵn vết tích của nền văn minh thảo mộc khi nhân danh “tình yêu văn hóa”, khoác áo nhà sưu tập cổ vật để cưa sạch những vườn tượng nhà mồ, vét sạch những cổ vật bản địa (Thời sạo sục của những “nhà sưu tập”). Mà phá hoại văn hóa đâu chỉ là việc làm những người đói khổ, giới hạn nhận thức, di sản, ký ức văn hóa là những khái niệm xa lạ trong tư duy những nhà quản lý não trạng con buôn sẵn sàng gỡ từng thanh sắt của cây cầu sắt Dran, dấu chỉ của tuyến đường sắt răng cưa Đà Lạt – Phan Rang trong kí vãng để bán sắt vụn (Con đường sắt nối biển với hoa tan như sương khói).

Đọc ký của Nguyễn Hàng Tình, bạn đọc nghe ra trong tiếng chiêng chuyển “chức năng” của giàn cồng chiêng phục vụ du lịch hàng đêm ở trên núi Lang Biang hay sự đổi đời của những dũng sĩ săn voi ở Buôn Đôn trở thành kẻ nài voi phục vụ du lịch... Không phải là những tín hiệu sáng sủa cho văn hóa Tây Nguyên như những bài báo cưỡi ngựa xem hoa tán dương hương xa, mà sâu xa, là tiếng kêu nhói lòng về một cõi minh triết (theo cách nói của Jacques Dournes) đã mất.

Thông điệp trả rừng cho Tây Nguyên đưa ra lúc này có thể đã muộn. Lời “từ giã hoang vu” của một tấm lòng hiếu hạnh với rừng núi biết sẽ không còn đủ sức lay động, hay kịp ngăn chặn những cỗ máy mọi rợ cào vét tài nguyên, nhưng nó vẫn là một lời giã biệt tử tế của một ngòi bút có bổn phận, dấn thân, là bản lĩnh của một ký giả với vùng đất mình gắn bó.

Những trang viết của Jacques Dournes chỉ nói cái mênh mang tự do, hào hoa bay bổng của những cuộc hành trình trải ra trước mắt kẻ lữ hành với “gùi trên vai và giáo cầm tay”, đi mải miết trong chốn rừng sâu núi thẳm, qua những làng mạc xa lạ, chinh phục những nẻo đường mới, xuyên những miền không gian, thời gian tơ tưởng. Ông không nói về những hiểm làm nên mùi vị, sức thu hút và biết bao day dứt, kể cả thương tổn phía sau những chuyến phiêu du.

Nguyễn Vĩnh Nguyên

(Đọc từ biệt hoang sơ, ký sự Nguyễn Hàng Tình, Phương Nam Book & NXB Hội Nhà Văn, 2013)

Những trang ký sự nhân vật không chỉ biểu hiện rõ nét chân dung, tâm hồn con người, mà đề đạt bóng dáng tính cách, gửi gắm suy tư của người viết, một nhà báo độc lập tìm thấy sự chia sẻ trong khát vọng, ý hướng sống.