Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2013

Lạ lùng làng điêu khắc “độc nhất vô nhị” ở Hà tất cả thành

Ông Quân với một tác phẩm.

>> Đón đọc ấn phẩm cần lao & đời sống số 11

Những bàn tay vàng

Chúng tôi về làng nghề Dư Dụ trong những ngày giữa tháng 6, từ xa đã nghe thấy tiếng lách cách rộn rã của nhát đục, nhát gõ và âm thanh của tiếng cưa, xẻ gỗ. Đến đầu làng là có thể cảm nhận được mùi gỗ mới, mùi của nước sơn lan tỏa trong không gian thanh bình của một làng nghề vốn có truyền thống từ lâu đời. Dù trời nắng hay mưa, dẫu là cái lạnh của mùa đông hay cái oi bức giữa trưa hè thì người thợ điêu khắc làng Dư Dụ vẫn thoăn thoắt tay đưa đục, làm ra những sản phẩm để trưng bày, trang trí cho không gian, nội thất hay những bức tượng bề thế ở những ngôi chùa từ Bắc vào Nam.

Sản phẩm phổ biến nhất của làng nghề giờ vẫn là phục vụ nhu cầu của những người có thú chơi trưng bày những tượng trưng của sự yên vui, may mắn, đó là hình tượng ông Phúc, Lộc, Thọ, Phật Di Lặc... Những sản phẩm ấy được làm ra bởi những con người rất mực bình dị, họ chuyên cần làm thuê việc đòi hỏi sự khéo léo trong từng chi tiết. Nà những đường lượn cho cái bụng phong túc của ông Di Lạc, vừa căng tròn lại thêm cái miệng cười tươi rất yêu đời, là khuân mặt hồn hậu và cái tai trường sinh của đức Thích Ca Mâu Ni...

“Trên từng thớ gỗ, người thợ bố trí sao cho những đường vân của khối gỗ được rơi vào đúng những điểm đặc biệt để nhấn mạnh ý nghĩa, vừa tạo sự hợp vừa mang nét độc nhất mà những người trong nghề và sành chơi đồ gỗ mới có thể cảm nhận được” - ông Nguyễn Duy Hội (một người có hơn 40 năm trong nghề) cho biết.

Những tác phẩm điêu khắc được làm ra từ kỹ năng của người thợ làng Dư Dụ đã đạt đến mức thượng thừa về nghệ thuật điêu khắc, được diễn đạt qua đôi bàn tay khéo léo. Kể cả những mẫu sản phẩm mới đến với người thợ làng Dư Dụ cũng chỉ là “chuyện thường ở phố huyện”, bởi cái căn cơ của nghề thấm vào tâm thức họ.

Một số tác phẩm điêu khắc.

Mỗi cơ sở sinh sản ở Dư Dụ đều có những kiểu dáng rất đa dạng và phong phú. Từ những mảnh gỗ nhỏ, thô kệch, thông thường mà có khi nhiều người nghĩ chỉ dùng làm củi đun cũng ngại, nhưng khi đặt vào bàn tay và khối óc người thợ Dư Dụ, mảnh gỗ ấy bỗng có hồn và trở nên một sản phẩm, một tác phẩm nghệ thuật hữu ích.

Sản phẩm được người thợ điêu khắc thổi hồn vào từng dáng đứng, dáng người và đặc biệt chú trọng đến từng họa tiết nhỏ nhất của sản phẩm. Làng nghề đã bao đời “cha truyền con nối” nên người dân ở đây từ đứa trẻ lên 10 đến những người thợ già vẫn luôn từng ngày, từng giờ gọt giũa, đục khắc, “đẽo” cái hoa tay của mình để làm ra những sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống điểm tô cho đời.

Một số tác phẩm điêu khắc.

Nghệ thuật và bí ẩn tượng gỗ


Chỉ vào bức tượng Phật nhỏ đang được trưng bày trong nhà, ông Nguyễn hoá công (60 tuổi) cho biết: “Nếu đối với người khác thì đoạn gỗ lũa này chẳng thể làm gì được, nhưng nhìn qua người thợ chúng tôi đã thấy dáng của vị cha ông Bồ Đề Lạt Ma với vạt áo cà sa ẩn hiện trong làn mây mờ và cây gậy huyền bích. Chỉ cần kỳ công thêm là đã trở thành một sản phẩm không tiền khoáng hậu. Có người đến trả tôi cả cây vàng nhưng tôi không bán”.


Một nữ điêu khắc đang chăm chút sản phẩm của mình

Đối với những người làm nghề, ngoài việc tuân chặt chẽ luật của nghệ thuật: Cân đối, hài hòa, khuôn phép thì họ còn phải tâm tính theo quy luật âm dương - ngũ hành, thuật phong thủy của bức tượng. Giá trị của bức tượng gỗ là phải mang đậm tính triết lý phương Đông, phải tuân một cách chặt chịa về cả chất liệu, kích thước, cách sắp đặt, màu sắc sao cho đúng với 8 quẻ trong bát quái. Hướng Nam theo bát quái là âm Hỏa, có tính nóng nên hợp với các màu ranh ma như đỏ, vàng và ứng với mùa hè và cung danh vọng. Hướng Tây là âm Kim hạp với các màu sáng, trắng, ứng với mùa thu và cung quý tử. Còn hướng Bắc vốn là dương thủy, phù hợp với các màu tối như đen, tro, nâu thẫm, ứng với mùa đông và cung sự nghiệp…

Thêm nữa, việc đặt các bức tượng ở các vị trí hạp là hết sức quan yếu, nó ảnh hưởng đến sức khỏe, sự nghiệp, tài lộc, tài trí… của gia chủ. Hầu hết mỗi bức tượng đều có liên hệ đến các cung trong nhà, ví dụ tượng Phật Di Lặc vào cung Phú Quý trong nhà; cung Quý Nhân đặt tượng Thánh Gióng, Trần Hưng Đạo, Quan Công, Đạt Ma tiên sư cha… Tượng phật Di Lặc là tượng trưng cho sự an lạc, vui vẻ, may mắn và hạnh phúc, là vật phẩm tôn kính trong phong thủy, khi trưng bày trong nhà sẽ mang lại rất nhiều điều tốt lành cho gia chủ. Tượng Phúc-Lộc-Thọ biểu tượng cho 3 vị thần này trong nhà để lôi cuốn vượng khí chủ về phúc, lộc, thọ. Gia chủ sẽ may mắn về kinh dinh, tiền nong và là tượng trưng dùng để biến hung thành cát trong công việc.

Làng từng xuất hiện bậc kỳ tài

Ở Dư Dụ, trên 90% người dân làm nghề điêu khắc, nhưng có điều lạ là chưa có một người nào nhận mình là nghệ nhân, họ chỉ nhận mình là người thợ lành nghề. Về già họ vẫn mài miệt truyền lại những kinh nghiệm quý của cả cuộc đời mình cho thế hệ sau. Bởi thế, qua bao năm tháng và sao thăng trầm của lịch sử, những tuyệt kỹ của nghề chạm khắc Dư Dụ vẫn không bị mai một.

Theo cụ Nguyễn Duy Sinh (78 tuổi) thì nghề điêu khắc không biết có từ khi nào, chỉ biết rằng trong đình của làng thờ ông tổ làng nghề cũng đã trên 500 năm. Thời Vua Minh Mạng đã từng mời hàng chục người thợ của làng nghề Dư Dụ vào kinh đô Huế góp phần xây dựng cung đình hoa lệ nguy nga của nhà Nguyễn. Cảm phục tài năng của những người thợ, Vua Minh Mạng đã ban sắc phong cùng nhà cửa, ruộng vườn, bổng lộc ngay tại kinh kì Huế. Sau này những người thợ Dư Dụ đã ở lại Huế và lập thành làng Túc (tên làng trước đây của Dư Dụ).

Trong hai cuộc kháng chiến, làng nghề Dư Dụ như bao vùng quê khác tạm gác công việc của mình; người lên đường dự chống chọi, người ở nhà thì hăng hái tăng gia, sinh sản. Năm 1978, làng nghề mới được khôi phục lại và hoạt động cho đến hiện tại.

Những pho tượng kỷ lục được xuất xưởng.

Mọi người vẫn còn nhớ rất rõ câu chuyện về một người thợ tài hoa Nguyễn Quốc Tú (SN 1963) được phong tặng danh hiệu nghệ nhân đầu tiên ở làng. Từ nhỏ Tú đã tỏ ra là một người lanh lợi và đặc biệt có tố chất trong nghệ thuật tạo hình. Năm 1978, làng nghề được khôi phục, lúc đó Tú mới 15 tuổi nhưng trình độ thì chẳng thua kém những cụ cao niên trong làng. “Nếu có một sản phẩm mẫu đưa cho Tú, thì chỉ cần nhìn qua một lượt là Tú có thể làm y nguyên. Đến người trong nghề cũng không thể phân biệt nổi đâu là sản phẩm mẫu, đâu là sản phẩm do Tú làm ra. Có chăng chỉ có thể phân biệt qua chất liệu gỗ mà thôi” - ông Nguyễn Duy Đức kể lại.

Điều mọi người nhớ nhất là khả năng đặc biệt của Tú “bịt mắt tạc tượng” (dùng khăn bịt mắt lại mà vẫn thoăn thoắt tay đưa, khi bỏ khăn ra cũng là lúc sản phẩm được hoàn thành mà không hề có một chi tiết lỗi). Năm 1980, nhận thấy anh tài của Tú, một bảo tàng ở Hà Nội đã mang xe con về tận nơi đón anh lên làm việc phục chế cổ vật. Hồi đó, Tú được phân nhà và chế độ ngang với giám đốc bảo tàng.

Năm 1990, tai họa bất ngờ ập xuống, do bất cẩn trong lúc đang làm việc, chiếc chạm gỗ sắc lẹm đã găm vào bàn tay phải làm đứt gân và động mạch. Anh được đưa đi cấp cứu kịp thời, được nối gân, nối mạch máu nên không hiểm nguy đến tính mệnh. Thế nhưng cũng từ đây, anh mất đi cảm giác, bàn tay tài tình bỗng dưng lật đật vụng trộm. Anh được chuyển sang một công việc khác hạp hơn. Nhưng khổ nỗi, đối với anh nghề chạm khắc chính là bản mệnh, nên từ ngày không còn làm được nữa anh lầm lì ít nói, rồi phát bệnh tâm thần. Sau khi chữa trị nhiều nơi vẫn không khỏi, rốt cuộc người nhà phải đưa về quê, sống một mình trong một ngôi nhà nhỏ ở làng Dư Dụ.

Với danh tiếng của làng nghề Dư Dụ, nhiều nhóm thợ đã được mời đi làm những bức tượng lớn kỷ lục. Năm 2010, một nhóm thợ của Dư Dụ đã vào tận Đà Lạt làm một pho tượng trong thời gian 2 năm mới hoàn tất. Mới đây, một nhóm thợ của gia đình anh Nguyễn Đức Duy cũng làm một pho tượng ở chùa Duyên Quang, Quế Võ (Bắc Ninh) trong thời kì 1 năm với chiều cao kỷ lục trên 7 mét.

Trong lúc nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn thì sản phẩm làng nghề Dư Dụ vẫn tìm được chỗ đứng trên thị trường. “Hồ hết các tỉnh đều có gian hàng của làng nghề Dư Dụ, nhiều nhất là TPHCM, cửa khẩu Móng Cái, Lạng Sơn... Vì đồ gỗ Dư Dụ được khẳng định là nơi đẹp nhất cả nước” - ông Nguyễn hoá công (Trưởng thôn Dư Dụ) khẳng định chắc nịch.