Hai là, phân định rõ mối quan hệ giữa các chủ thể thực hành giám sát tài chính: - Đối với DN: tụ tập vào hệ thống quản lý, Hội đồng quản trị và các ban điều hành, trong đó DN phải tự xây dựng được hệ thống kiểm soát hay kiểm toán nội bộ và xây dựng được mẫu biểu hệ thống thu thập thông báo từ công ty con đến công ty mẹ hoặc công ty bộ phận đến công ty độc lập
Nguyên cớ của tình trạng này là bởi bộ tiêu chí giám sát này phân theo ngành nghề và đồng thời lại có cả những tiêu chí hiệu quả của hoạt động kinh dinh. Cũng trong giai đoạn đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2013/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế giám sát tài chính và Bộ Tài chính cũng đã có một số văn bản hướng dẫn quản lý và giám sát tài chính đối với vốn quốc gia tại các DNNN, như: Quyết định số 271/2003/QĐ-TTg ngày 31/12/2003, khi ra đời Luật DNNN 2003, Quyết định số 224/2006/QĐ-TTg ngày 6/10/2006, khi chúng ta sửa đổi để thích hợp với việc hội nhập.
Tụ tập vào vấn đề giám sát trước và trong, thay vì chỉ giám sát sau và giám sát tuân thủ.
Dần dần, những tiêu chí đánh giá hiệu quả đã trở nên tiêu chí để quay lại giám sát. Trong trường hợp DN gặp những rủi ro thì phải tiến hành vấn đề giám sát đặc biệt. Tất nhiên, trong quá trình thực hiện, vẫn cần tiếp kiến phải nghiên cứu hoàn thiện, nhưng trước mắt Nghị định này sẽ giúp cho chúng ta tin cẩn hơn vào hệ thống số liệu mà các DNNN công bố và có bộ phận kiểm chứng để lấy lại niềm tin đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như trong tầng lớp.
Bốn là , hệ thống chế tài được thiết kế cụ thể, đủ mạnh và rõ ràng đối với các trường hợp vi phạm, song song phải gắn với quyền và trách nhiệm của từng chủ thể giám sát.
#. Ba là, hệ thống các tiêu chí giám sát tài chính bảo đảm đầy đủ nội dung cấp thiết, có tính đến thuộc tính ngành nghề, bảo đảm yêu cầu của từng chế độ bẩm. Chế tài xử lý đối với các vi phạm trong việc giám sát, đánh giá hiệu quả DN cũng chưa đầy đủ, rõ ràng và chưa bảo đảm được tính răn đe.
Bản thân trong DN. Bởi vậy, tính kịp thời trong giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của DN còn hạn chế, tính cảnh báo ngừa chưa được phát huy, kết quả giám sát đánh giá đốn để khắc phục hậu quả. Quy chế giám sát tài chính kèm theo Nghị định số 61/2013/NĐ-CP đã khắc phục các khuyết thiếu của cơ chế hiện hành. Những DN nào quan tâm đến việc giám sát rủi ro, an toàn về tài chính, đã tiếp cận với những cơ quan tư vấn, các hiệp hội, đặc biệt các cơ quan kế toán, kiểm toán, phối hợp với việc hoàn thiện hệ thống công nghệ thông báo ở trong DN… thì đảm bảo được vấn đề giám sát tốt và hiệu quả.
…Và sự an toàn trong mô hình giám sát mới Từ năm 2010, khi Luật DNNN đã hoàn tất sứ mạng lịch sử, chúng ta bước sang thời kỳ các DN có vốn nhà nước, các DN 100% vốn quốc gia được hoạt động đồng đẳng với các loại DN khác thì Chính phủ cũng đã yêu cầu các bộ, ngành nghiên cứu một mô hình giám sát theo hướng giám sát và cảnh báo, ngừa; còn hệ thống giám sát tuân thủ đã có các cơ quan thanh tra, rà, Kiểm toán nhà nước thực hành.
Quy chế giám sát tài chính kèm theo Nghị định số 61/2013/NĐ-CP đã khắc phục các khuyết thiếu của cơ chế hiện hành. - Đối với cơ quan quản lý tài chính DN: phải có nghĩa vụ giám sát kiểm tra việc tổ chức thực hành giám sát của chủ sở hữu DN, giám sát việc chấp hành pháp luật và tổng hợp ít để công khai trước Quốc hội và quần chúng.
Về quy định nghĩa vụ, trong cơ chế hiện hành, chúng ta cũng chưa quy định rõ đâu là bổn phận của DN, đâu là nghĩa vụ chủ sử hữu, đâu là của cơ quan quản lý, dẫn đến tình trạng chủ sở hữu không nắm được và cơ quan quản lý nhà nước xuống giám sát thì cũng không có dụng cụ để tiến hành. Nguồn: internet Những bất cập của mô hình giám sát hiện hành… Về mô hình quản lý giám sát, ngay từ năm 2001, khi chúng ta triển khai vấn đề đổi mới, sắp đặt và canh tân DN, Chính phủ Việt Nam đã có sự quan hoài và tập trung rất mạnh vào vấn đề giám sát và quản lý phi tài chính đối với DN có vốn quốc gia.
Trong vấn đề về ban hành văn bản, chúng ta cũng đưa ra một nguyên tắc cơ bản để DN tự chủ, tự giám sát, cơ quan quản lý và giám sát của quốc gia là Bộ Tài chính sẽ là cơ quan tổng hợp về ít giám sát đó, định kỳ bẩm cho Chính phủ và Quốc hội.
Năm là, thực hành công khai minh bạch thông báo về tình hình tài chính của DN theo từng đối tượng hấp thu thông báo (chủ sở hữu, cơ quan quản lý nhà nước, người lao động, nhà đầu tư) để các đối tượng thu nạp thông tin nắm bắt được thực trạng tài chính DN.
Kết quả đạt được đã kiến lập được cơ chế cho DN chủ động giám sát. Cụ thể là: - Ban hành các tiêu chí giám sát tài chính cụ thể tại DN; - Nội dung các tiêu chí giám sát theo hướng đánh giá đúng, đủ và sát tình hình hoạt động và hiệu quả sinh sản kinh doanh của DN và một bước tách bạch các yếu tố tầng lớp; - Làm rõ các chỉ tiêu báo cáo giúp DN thực hiện đúng quy định về ít, công khai tình hình tài chính, minh bạch chính xác hơn kết quả hoạt động của DN; - Quy định cụ thể về bổn phận về quản lý và giám sát tài chính DN của chủ sở hữu, của DN và của cơ quan quản lý quốc gia về tài chính; - Đưa ra các chế tài xử lý đối với các tổ chức, cá nhân chủ nghĩa nếu như không thực hành nghiêm túc các nội dung giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động DN mà Quy chế đã nêu.
Như vậy là chúng ta đã làm ngược, xem kết quả rồi mới giám sát.
Trong quá trình giám sát, các cơ quan chủ thể giám sát sẽ được tiếp cận bẩm của các cơ quan thanh tra và kiểm toán của nhà nước đối với khu vực có vốn quốc gia.
Trong quy chế đặc biệt, Nghị định cũng đã đưa ra những dấu hiệu, quy trình và xử lý sau khi giám sát đặc biệt. Chế tài xử lý phân cấp trên cả ba khâu, từ DN, chủ sở hữu gồm các bộ, ngành và các Ủy ban dân chúng và các cơ quan quản lý quốc gia.
Qua đánh giá, chúng tôi rút ra được một số vấn đề bất cập của mô hình này như sau: Thứ nhất , về nội dung giám sát, trong các quy chế đã quy định tương đối cụ thể về vấn đề đánh giá hiệu quả, do đó, các DN, các chủ sở hữu là các bộ, ngành, địa phương đẵn tụ hợp đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả để phân loại, sau đó tiến hành các cơ chế khen thưởng, phân chia các nguồn thu nhập sau thuế.
Ngày 25/6/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2013/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông báo tài chính đối với DN do nhà nước làm chủ sở hữu và DN có vốn quốc gia. - Đối với chủ sở hữu DN: phải liền tù tù giám sát trước và trong đối với DN có vốn nhà nước.
Thứ hai , bộ tiêu chí giám sát chỉ tụ hợp vào việc đánh giá hiệu quả, còn các tiêu chí giám sát để dự phòng rủi ro lại giao cho DN tự xây dựng, cứ vào những quy định của các chuẩn kế toán, của DN dẫn đến tình trạng mỗi DN có một bộ tiêu chí khác nhau.
Theo Kiểm toán Cuối tháng. Ngược lại, do sự tự chủ của cơ chế này nên nếu những DN nào không quan tâm, không chú trọng các vấn đề trên thì sẽ dẫn đến việc kiểm soát dự phòng rủi ro không thực hành được.
Trên thực tiễn cũng đã xảy ra tình trạng một số DNNN có vi phạm trong vấn đề sản xuất kinh dinh, đầu tư và quản lý vốn, tài sản quốc gia nhưng chưa kịp thời phát hiện và có biện pháp chỉnh đốn hữu hiệu.
Tóm lại, với một Quy chế mới ban hành, cần phải sang trọng thời kì mới có thể đánh giá được hiệu quả. Đích của Nghị định số 61/2013/NĐ-CP: Một là, giám sát tài chính tức là đánh giá đúng được thực trạng tài chính của DN, những nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến rủi ro tài chính. Tuy nhiên, với sự chuẩn bị từ năm 2011 đến nay, coi những quy định của Nghị định số 61/2013/NĐ-CP sẽ đáp ứng được yêu cầu và nhu cầu của hiện tại và trong mai sau sắp tới.
Tiếp đó là Quyết định số 169/2007/QĐ-TTg ngày 8/11/2007 (thay thế Quyết định số 271/2003/QĐ-TTg) để giám sát những DN có rủi ro về tài chính.
Nếu lãnh đạo DN không quan hoài hoặc vì một lý do tư lợi nào đó sẽ rất dễ dẫn đến việc biến bộ tiêu chí phục vụ cho lợi. Nghĩa vụ kiểm soát của cơ quan nhà nước tiến hành cốt là giám sát tuân thủ, vậy, nó hoàn toàn không có tác dụng tích cực trong việc đề phòng, cảnh báo. Về tính kịp thời của việc giám sát: việc giám sát theo Quyết định số 224/2006/QĐ-TTg thực hiện mỗi năm một lần, sau khi DN đã hoàn thành việc kiểm toán độc lập ít tài chính.